6. Địa chỉ đơn vị có tài sản: Số 05 đường Nguyễn Tất Thành, Phường 1, thành phố Bạc Liêu: 7. Nội dung tài sản bán: Bán đấu giá khoáng sản (cát), có lẫn nhiều tạp chất; số lượng 212m3. Nguồn gốc tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. 8.
Đáp gọn: "Tấn sử" có ghi lại: Năm 347 sau Công nguyên, Huân Văn Trịnh Thư hỏi một sử gia: "Gia Cát công tử có gì phi thường không?". Sử gia đáp: "Không có gì phi thường", Huấn Văn liền lộ ra vẻ kiêu ngạo. Nhà sử học dừng lại một lúc lâu và nói: "Nhưng từ khi có Gia Cát
Gia Cát Lượng là người có công lớn trong việc giúp Lưu Bị gây dựng nên nhà Thục Hán, hình thành thế chân vạc Tam quốc, tạo liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại, được sánh với Tôn Tử.
Khi mỗi thời đại lịch sử qua đi rồi, người ta quay lại xem mới thấy Gia Cát Lượng dự ngôn chuẩn xác đến phi thường. * * * Sau đây là phần giải nghĩa:[indent] Khóa 1 Trung Hạ Vô lực hồi thiên Cúc cung tận tụy Âm cư Dương phất Bát thiên nữ quỷ Tạm dịch:
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Gia Cát Lượng được thiên hạ biết đến như một bậc thầy về tử vi, tướng số và phong thủy. Tuy nhiên “người tính không bằng trời tính”, lá số tử vi của Gia Cát Lượng chính ông cũng không thể thay đổi con mắt Tử vi học, bởi Gia Cát Lượng mệnh vô chính diệu, tức là cung mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên không thể làm người đứng đầu điều hành công việc được mà chỉ ở vị trí phò tá mới phát huy được tài Cát lượng trong phim Tam quốc diễn nghĩa do nhân vật Đường Quốc Cường thủ vai Ảnh một cuốn sách nghiên cứu về tử vi mang tên Cuộc đời và số mệnh, tác giả đã phân tích“Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10/4 năm Tân Dậu. Mệnh Vô chính diệu an tại Mùi có Thái Dương ở Mão mặt trời lúc bình minh và Thái Âm ở Hợi mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm cả hai cùng hợp chiếu về mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư kim diện”. Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà mệnh Vô chính diệu cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có mệnh Vô chính diệu, chịu dưới 1 người mà trên muôn vạn người mệnh vô chính diệu thì phải xét đến sự góp mặt của những sao không vong Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không thì mới làm rõ được tính cách của bản Cát Lượng có sao Thái Âm, miếu địa tại cung quan và sao Thái Dương vương địa ở cung tài tam chiếu, đây được gọi là cách nhật nguyệt định minh hoặc nhật nguyệt chiếu vào hư vô cách. Điều này chứng tỏ rằng, Gia Cát Lượng có chân mệnh là người thông minh, cơ xét về các sao không vong, thì Gia Cát Lượng là người vô chính diệu đắc nhị không Tuần và Địa Không. Mặt khác, cung phúc đức của Gia Cát Lượng vô chính diệu lại có sát tinh là Địa Kiếp, chính vì vậy mà tuổi thọ của ông không được cao ông chỉ thọ 54 tuổi.Một hình ảnh khác của Gia Cát Lượng trong Tam quốc diễn nghĩa do diễn viên Lục Nghị vào vai. Ảnh mệnh của Gia Cát Lượng có sao Hữu Bật Tả Phù, cộng với Long Trì Phượng Các ở cung Thiên Di và hóa quyền tại cung tài, nên Gia Cát Lượng là người tinh thông nhiều vấn đề và có uy quyền thực sự, có tài thuyết phục người khác. Cung Di của Gia Cát Lượng có sao Thiên Đồng đây là sao nói về di chuyển và dời đổi, nên có thể khẳng định ông là người rời quê hương lập nghiệp xa Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao Điếu Khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hóa công rất cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu, cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành thời nhà Thục 221- 263, Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị cung Nô Bộc của Gia Cát Lượng có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh với như Mã Tốc, Ngụy Diên.Một hình ảnh khác của Gia Cát Lượng do Lâm Phong diễn xuất. Ảnh cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì không xoay đổi khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm 1 giáp nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị gió thổi tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng, vì vậy mà ông không thể sống được năm Giáp Dần 234, sao Lưu Thiên hư chiếu ở cung bản mệnh, Lưu Kinh dương chiếu ở cung di, đây đều là những sao xấu ảnh hưởng trực tiếp đến bản mệnh. Cung Di của Gia Cát Lượng còn có sao Tuần và Bệnh Phù, điều này nói lên ông đã bị mắc bệnh một thời gian dài trước khi cung Thân bản thân có Lưu Thiên Khốc và Lưu Đà là những sao hàng lục sát rất xấu trong hàng bản mệnh. Cộng với cung Phúc Đức trong lá số tử vi của Gia Cát Lượng đã xấu, nên dù tài giỏi ông cũng không tránh được mệnh của sao thêmNguyên nhân khiến Gia Cát Lượng một lòng một dạ với người vợ xấu xí của mìnhHãy khám phá xem bạn có những nốt ruồi phú quý nào?Kết luận đã được xác thực Trên 2 triệu người đã bị chính quyền Trung Quốc mổ lấy nội tạng sống
Ý nghĩa cuộc sống, Sở dĩ Gia Cát Lượng có tài hô phong hoán vũ nhưng lại phải chết ở tuổi 54 là vì cung mệnh vô chính diệu. Sự nghiệp dang dở Nhân vật Gia Cát Lượng sống thời Tam Quốc bên Trung Quốc là hình ảnh một quân sư đa mưu túc chí có tài ngồi trong màn trướng mà đẩy lui được cả chục vạn quân địch. Từ khi Lưu Bị có Gia Cát thì đánh đâu thắng đó, thế lực lớn mạnh ngang với Tào Tháo, Tôn Quyền để chia ba đất nước Trung Quốc. Gia Cát cũng qua đó mà trở thành nhân vật vĩ đại. Nhưng từ khi Lưu Bị mất rồi, vẫn Gia Cát Lượng với mưu hay kế hiểm mà 6 lần xuất quân ra Kỳ Sơn lại phải rút về chẳng đạt được gì. Dưới con mắt khoa Tử vi, điều này được lý giải vì Gia Cát Lượng mệnh vô chính diệu – tức là cung mệnh không có chính tinh tọa thủ, cho nên không thể làm người đứng đầu điều hành công việc được mà chỉ ở vị trí phò tá mới phát huy được tài năng. Trong một cuốn sách nghiên cứu về tử vi mang tên Cuộc đời và số mệnh, tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng phân tích “Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10/4 năm Tân Dậu. Mệnh Vô chính diệu an tại Mùi có Thái Dương ở Mão mặt trời lúc bình minh và Thái Âm ở Hợi mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm cả hai cùng hợp chiếu về mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt tịnh minh tá cửu trùng ư kim diện”. Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi. Vì mệnh Vô chính diệu cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có mệnh Vô chính diệu, chịu dưới 1 người mà trên muôn vạn người. Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi, lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi việc như một vị vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với mệnh vô chính diệu. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết quả…. Đó là đặc tính đáng chú ý của người có mệnh Vô chính diệu Mưu sự cho người thì dễ mà cho chính bản thân mình thì khó”. Theo quan điểm của cụ Thiên Lương – một danh sư trong làng Tử vi Việt Nam, người có nhiều kiến giải sáng tạo đã lập ra một trường phái Tử vi riêng biệt gọi là trường phái Thiên Lương, thì sở dĩ sự nghiệp của Khổng Minh không đi tới đâu vì trong so sánh với đối thủ bị thua kém. Cụ Thiên Lương viết “Quân sư Khổng Minh sanh năm Tân Dậu ngày 10/4 giờ Tuất, Tả Hữu Điếu khách nhập mệnh được Thái Âm chiếu lên. Đây là tư cách một thầy đời hữu công vô lao, phù hợp với Thiếu Dương ở Mão thủ Thân bị lôi cuốn vào một thế hệ không sao giữ nổi chánh nghĩa mặc dầu cố hết công trình xây dựng. Mộc mệnh sinh xuất cho Thái Dương, nghịch lý âm dương nghĩa là thân ở cung Mão mang hành mộc sinh xuất cho sao Thiếu Dương ở trong cung đó – Tg. Mệnh thân Quyền, Phá, Hư đối diện Thiên di có Thái tuế, Thiên khốc, rõ ràng mình ở thế xuống dốc mà kẻ đối nghịch được chính nghĩa dội vang hòa hợp ở thế Kim khắc Mộc, rốt cuộc họ thắng. Mệnh yểu nên cầm sao thất bại Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại. Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn. Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”. Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”. Trích Vũ Tiến Đức • Xem mệnh 12 con Giáp tại đây Khải Toàn Phong thuỷ • Chánh niệm “Thành công nhờ kiên trì – Trí tuệ nhờ Chánh niệm”, nghĩa rằng muốn thành công phải thật kiên trì, có những việc thực hiện cả vạn lần, tư duy luôn hướng tới những điều tích cực trong mọi hoàn cảnh sẽ sinh ra trí tuệ. • Nhân quả Giả dụ mỗi ngày bạn bỏ vào ống heo 100 ngàn đồng, một năm sau heo sẽ mập, mỗi ngày hành thiền 10 phút, một năm sau tâm trí sẽ thành cây đại thụ an tịnh. Đạo lý này nói lên “quả của hôm nay, hoàn toàn là Nhân của hôm qua”. • Khải Toàn không phải thầy phong thủy nổi tiếng, dùng kiến thức phong thủy chân chính, dùng khả năng tu tập của bản thân, để trợ duyên những vị đủ duyên và đủ phước để cải vận, trong kết quả luôn kèm theo lời khai thị về sống chân thiện, mở lòng bố thí, khuyến nghị hành thiền, đó là những phương tiện gia tăng vận may ngoài ứng dụng phong thủy • Phong thủy là phương tiện trợ duyên giúp công danh thăng tiến. Không gian là phong thủy, tâm lý là phong thủy, sạch sẽ gọn là là phong thủy tốt, tâm trạng phấn khởi là phong thủy tốt, vị nào có tấm lòng vị tha không chấp trước hẵn là người có phúc đức. Hãy theo dõi kên “Khải Toàn Phong thủy” trên Youtube / Tik Tiok / Facebook Bài viết hay liên quan
Cuối thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng gần như trở thành thủ lĩnh, có tiếng nói hơn cả hậu chúa Lưu Thiện. Sau khi ông mất, Lưu Thiện một lúc giết chết 3 vị đại thần khiến ai cũng nghĩ ông ngu ngốc cho đến khi biết được ẩn tình bên trong. Thời Tam Quốc, nước Thục có thể nói là vùng đất quy tụ nhân tài. Trong giai đoạn đỉnh cao nhất, có Ngọa Long tiên sinh - Gia Cát Lượng, còn có cả Ngũ Hổ thượng tướng đều tề tựu ở nước Thục. Thế nhưng, tới nửa sau của thời Tam Quốc, nhân tài nước Thục mới dần dần trở nên khan hiếm. Sau khi Lưu Bị qua đời, nước Thục về cơ bản gần như là coi Gia Cát Lượng làm thủ lĩnh. Lưu Thiện là hậu chúa của nước Thục, nhưng về cơ bản là chẳng có chút quyền lực gì. Không chỉ có vậy, khi so sánh với Gia Cát Lượng, Lưu Thiện lại càng trở nên ngu dốt hơn. Lưu Thiện không hề ngu ngốc như vẻ bề ngoài mà mọi người vẫn tưởng. Ở Trung Quốc, khi muốn khen một người nào đó thông minh, người ta thường ví người đó với Gia Cát Lượng, khi ấy người được khen chắc chắn sẽ rất vui. Nhưng khi chúng ta chửi ai đó là ngu dốt thì luôn so sánh người đó với Lưu Thiện, nói họ là “A Đấu biệt danh của Lưu Thiện không dìu dắt nổi”, như thế thì người bị chê chắc chắn sẽ tức nhảy dựng lên. Vậy tại sao hình tượng Lưu Thiện lại tồi tệ như vậy? Thực ra nguyên nhân quan trọng đó chính là Lưu Thiện sau khi đầu hàng Tào Ngụy, nói với Tư Mã Chiêu một câu “Ở đây rất vui, ta không còn nhớ nhung gì về nước Thục nữa”. Việc này đã trở thành chuyện cười thiên cổ. Nhưng chúng ta hãy nghĩ kỹ xem, nếu như mà Lưu Thiện đang ở trong tình cảnh như thế mà không biết đường cúi đầu, vậy thì ông ta mới thực sự là ngu ngốc. Thực ra Gia Cát Lượng từng đánh giá về con người Lưu Thiện, trong cuốn “Tam Quốc chí - Xác Vy truyện” có ghi chép “Triều đình Lưu Thiện năm nay 18, khôi ngô tuấn tú, thông minh, yêu thương thuộc hạ, người dưới. Người trong thiên hạ ái mộ Hán Thất, muốn cùng vua ứng thiên thuận dân, phò tá minh chủ, lập công phục hưng, lưu danh trong cuốn trúc bạch”. Lưu Thiện thực ra không hề ngu ngốc, thậm chí có thể nói là người vô cùng sáng suốt. Chính vì thế, sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện mới có thể tiếp tục trấn giữ được nước Thục thêm hơn 30 năm. Hơn nữa, Lưu Thiện cũng không hề nhu nhược như trong những bộ phim truyền hình diễn tả. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện đã lập tức giết 3 vị đại thần chỉ trong nháy mắt cực kỳ quyết đoán. Hãy xem 3 vị đại thần đó là ai và nguyên nhân gì khiến Lưu Thiện kiên quyết ra tay giết họ. Người đầu tiên ông hạ lệnh giết là Lý Mạc, người này cũng được coi là lão thần của Thục Hán, tuy nhiên quả thực lại là một phần tử thừa cơ triệt để từ đầu đến cuối. Năm ấy, khi Lưu Bị tiến vào Ích Châu, Lý Mạc được ra lệnh nhận chức ở Ích Châu. Trong một lần Lưu Bị tụ họp với thuộc hạ, để thể hiện bản thân, Lý Mạc lại chỉ trích Lưu Bị cướp đoạt Ích Châu là sai trái với những lời lẽ “nhân nghĩa đạo đức”. Khi ấy Lưu Bị liền hỏi lại rằng “Thế tại sao ngươi không đi giúp Lưu Chương?”. Lý Mạc nói cái gì mà “thực lực không đủ”. Lúc ấy, Lưu Bị suýt chút nữa là giết hắn ta, cũng may là Gia Cát Lượng đứng ra hòa giải, như thế mới giúp Lý Mạc thoát khỏi một kiếp nạn. Nhưng Lý Mạc lại chẳng hề có một chút gì gọi là cảm kích, thậm chí còn lấy oán báo ơn. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lý Mạc liền dâng tấu lên Lưu Thiện nói xấu, hủy hoại thanh danh của Gia Cát Lượng, còn nói muốn nhanh chóng tiêu diệt loại bỏ thế lực còn sót lại của Gia Cát Lượng. Lưu Thiện vô cùng phẫn nộ, thế là phái người bắt giữ Lý Mạc, đồng thời giết tên tiểu nhân này. Người thứ hai ông giết đó chính là Lưu Diễm, người này cũng là một lão thần, từng đảm nhiệm Xa Kỳ tướng quân, từng lập những công lao hiển hách. Tuy nhiên, người này tự cho là mình lập được công lớn, không hề coi Lưu Thiện ra gì, thậm chí còn nói những lời khiếm nhã, ô uế. Hắn ép vợ mình thừa nhận có gian tình với Lưu Thiện, không những dùng đế giày đánh Hồ Thị ác liệt mà còn dùng một tờ hưu thư giống như đơn ly hôn ngày nay để bỏ vợ mình. Sau này Hồ Thị kiện cáo lên Lưu Thiện, Lưu Thiện vô cùng tức giận, hạ lệnh giết chết Lưu Diễm. Hành động này của Lưu Thiện khiến những kẻ khác không còn dám nghĩ rằng ông là một kẻ dễ bắt nạt nữa. Người thứ ba là Dương Nghị, người này trong nửa sau thời Tam Quốc có thể nói là cánh tay đắc lực của Gia Cát Lượng, là người vô cùng có tài năng. Tuy nhiên, người này lòng dạ cực kỳ hẹp hòi. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Dương Nghị đã xử lý việc rút lui quân binh rất tốt, bảo toàn được căn bản của quân Thục. Ông ta nghĩ rằng mình đáng lẽ sẽ thay thế vị trí của Gia Cát Lượng nhưng Lưu Thiện lại không hề chọn ông ta làm tể tướng. Dương Nghị trong khi tức giận đã nói ra lời nói như thế này “Sớm biết như thế này thì khi ấy đã đầu hàng rồi đi theo Tào Tháo cho xong”. Nghe thấy vậy, đương nhiên Lưu Thiện sẽ tiễn ông ta đi theo Tào Tháo luôn. Xem thêm Nguồn Nguồn
“Mặc thủ Thành quy” là một thành ngữ được sử dụng rất phổ biến, ngày nay thường dùng để chỉ những người xem trọng tính bảo thủ, không tìm kiếm sự đổi mới tiến bộ, cũng có ý nói người như thế sẽ bị đào thải và thay thế bằng những thứ mới. Tuy nhiên nếu nhìn lại nguồn gốc của câu thành ngữ “Mặc thủ Thành quy” này, chúng ta sẽ tìm thấy trí tuệ uyên bác của hai nhân vật rất có lai lịch trong lịch sử – Mặc Tử và Gia Cát Lượng. Thuận theo dòng chảy lớn của lịch sử, Mặc thủ thành quy’ càng ngày càng bị con người đem ra sử dụng với ý nghĩa tiêu cực. Thành ngữ “Mặc thủ Thành quy” được cấu thành từ hai điển tích “Mặc thủ” và “Thành quy”, có nội hàm phong phú, lịch sử hình thành cũng vô cùng xa xưa. “Mặc thủ” chính là “Mặc Địch chi thủ” Điển cố “Mặc thủ” bắt nguồn từ câu chuyện của Mặc Tử thời Chiến Quốc. Lúc bấy giờ, học vấn và danh tiếng của Mặc Tử vô cùng hiển hách. Ông không chỉ là nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một nhà chiến lược quân sự tài ba. Chủ trương của ông là “Kiêm ái Phi công” “Kiêm ái” ý là “yêu quý lẫn nhau”, còn “Phi công” ý là “không dùng để tấn công”. Mặc Tử cũng tự nghiên cứu và truyền rộng phương pháp bảo vệ thành trì trước sự tấn công của kẻ thù. Trong cuốn Mặc Tử’ có ghi chép lại rằng Lúc bấy giờ Mặc Tử nghe tin nước Sở muốn tấn công nước Tống. Công Thâu Ban vì sinh ra tại nước Lỗ nên còn gọi là Lỗ Ban đã vì nước Sở mà chế tạo ra vân thê’ thang mây, chuyên dùng phá thành; khi làm xong sẽ tiến đánh nước Tống. Mặc Tử vì an nguy của quốc gia, quyết tâm lặn lội đường xa suốt mười ngày mười đêm từ nước Tề đến nước Sở thuyết phục Công Thâu Ban từ bỏ ý định tấn công. Sau đó, Công Thâu Ban đã dẫn ông đến yết kiến Sở vương. Mặc Tử dùng đạo lý thuyết phục và mô phỏng diễn biến cuộc chiến trước mặt Sở vương. Ông đã dùng sách lược thủ thành do bản thân mình phát minh ra để chặn đứng thế tấn công bằng thang mây của Công Thâu Ban khiến Sở vương bỏ đi ý định tiến đánh nước Tống. Lúc đó, Mặc Tử trải chiếc áo choàng của mình trên bàn tượng trưng cho đô thành nước Tống, lấy gỗ vụn và thẻ tre làm vũ khí thủ thành. Tổng cộng biến hóa chiến thuật đến chín lần, Công Thâu Ban đều bị Mặc Tử ngăn chặn, đến lúc vô kế khả thi rồi, thế mà vẫn còn rất nhiều sách lược phòng thủ của Mặc Tử chưa dùng tới. Sở vương đã bị thuyết phục và từ bỏ ý định tấn công. Đây chính là “Mặc Địch chi thủ” nổi tiếng trong lịch sử. Nhờ có Mặc thủ’ của Mặc Tử mà nhà Tống đã tránh được đại kiếp nạn chiến loạn. Vì vậy vào thời Chiến Quốc, những người dụng binh đánh trận đều e ngại khi nhắc đến “Mặc Địch chi thủ”. Còn những bên thủ giữ thành trì chỉ mong có thể đạt được “Mặc Địch chi thủ”. Người đời sau còn gọi “Mặc Địch chi thủ” là “Mặc thủ”. Tuy nhiên thuận theo dòng chảy dài của năm tháng, hầu hết mọi người đã quên đi nội hàm ban đầu của nó. Mặc Tử Ảnh Tài sản công Gia Cát Lượng dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục Điển cố Thành quy’ bắt nguồn từ một câu chuyện xảy ra tại nước Thục trong thời đại Tam Quốc. Lúc bấy giờ, trước khi Thục Vương Lưu Bị qua đời, ông đã mang việc quốc gia đại sự phó thác cho Gia Cát Lượng Khổng Minh và nhờ ông phò tá Lưu Thiện. Gia Cát Lượng đã không phụ sự phó thác của Thục Vương, suốt đời cúc cung tận tụy. Gia Cát Lượng liệu sự như thần đã sớm nhìn thấy nguy cơ nhà Thục Hán lâm vào khủng hoảng sau khi Lưu Bị qua đời. May thay hai đại thần là Tưởng Uyển tự Công Diễm và Phí Y tự Văn Vĩ đã dùng các nguyên tắc trị quốc bình thiên hạ của Gia Cát Lượng để ổn định tình thế Thục Hán lúc bấy giờ. Gia Cát Lượng nhìn người sáng suốt, rất coi trọng tài năng làm yên ổn lòng dân của Tưởng Uyển. Khi còn sống ông từng tiến cử Tưởng Uyển làm rường cột quốc gia với Lưu Bị, Gia Cát Lượng nói “Tưởng Uyển xem trọng xã tắc, không phải là người chỉ có tài trong trăm dặm; ông ta lấy việc yên dân, yêu nước làm gốc, mà không lấy việc chải chuốt, sửa đổi nguyên tắc của tổ tiên làm đầu; mong Chúa công xem trọng.” Khi Gia Cát Lượng mắc trọng bệnh có dâng mật biểu lên hậu chủ Lưu Thiện “Nếu thần không may qua đời, việc xã tắc về sau nên giao cho Tưởng Uyển.” Sau khi Gia Cát Lượng mất, Tưởng Uyển đã kế thừa tất cả quy tắc “Thành quy” mà Gia Cát Lượng định ra; ông đảm nhiệm Thượng thư lệnh, Đại tướng quân, Tổng lý chính, phụ trách các vấn đề quân sự quốc gia, phò tá hậu chủ 9 năm cho đến khi qua đời. Phí Y là người kế nghiệp tiếp theo của Gia Cát Khổng Minh và Tưởng Uyển, đã dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục. Phí Y hiểu biết hơn người, xử sự khiêm nhường; do đó Gia Cát Lượng cũng có sự đối đãi đặc biệt với ông. Trong “Phí Y biệt truyện” có mô tả ông như thế này “Người nhã nhặn khiêm tốn, không tích tài vật, con cái đều mặc áo vải, ăn chay, không đi xe ngồi kiệu, không khác phàm nhân”. Sau khi Gia Cát Lượng và Tưởng Uyển qua đời, Phí Y kế nhiệm làm quân sư cho hậu chủ đồng thời tiếp quản chức vụ Thượng thư lệnh của Tưởng Uyển, giữ chức Đại tướng quân. Phí Y từng đi sứ nước Ngô, các quan đại thần nước Ngô đã dùng ngôn từ vô cùng sắc bén nhắm thẳng vào Phí Y mà tranh biện. Phí Y dùng lời lẽ trung thực thuận lòng người không nhanh không chậm đáp trả khiến không vị quan nhà Ngô nào có thể làm nhục ông. Tôn Quyền thấy vậy trong lòng vô cùng bội phục. Tuy nhiên Phí Y lại là quan lại của nước Thục, Tôn Quyền vô cùng tiếc nuối “Quân thiên hạ thục đức, tất đương cổ quăng Thục triêu, khủng bất năng số lai dã”, tức là Phí Y có tư chất và phẩm hạnh cai trị thiên hạ, nhất định có thể trở thành trụ cột của nước Thục, trừ hắn ra e rằng sẽ không còn ai nữa. “Tam quốc chí” của Trần Thọ đã bình luận và ca ngợi hai vị đại thần này như sau “Tưởng Uyển chính trực có uy trọng, Phí Y hào phóng mà bác ái, tuân theo mà không sửa đổi các quy tắc “Thành quy” do Gia Cát Lượng đề xướng, giúp an định biên cương, bang giao hòa hảo”. Có thể thấy, chính sự tuân thủ theo “Mặc thủ Thành quy” này đã cho phép nhà Thục Hán duy trì mối quan hệ giao bang với các nước láng giềng và ổn định biên cương trong hơn một thập kỷ sau cái chết của Lưu Bị và Gia Cát Lượng. Sau này “Mặc thủ” và “Thành quy” được kết hợp lại thành thành ngữ “Mặc thủ Thành quy”. Con người hiện đại hầu hết đều nghĩ rằng “Mặc thủ Thành quy” có nghĩa là cố hữu vào các quy tắc cũ mà không chịu thay đổi. Trên thực tế, trí huệ của người xưa cùng những thành tựu họ để lại là điều mà hậu nhân không dễ gì đạt được. “Mặc thủ Thành quy” có thể giúp người tuân theo nó đứng vào vị thế bất khả chiến bại. Thuận theo sự phát triển của lịch sử, nội hàm của các thành ngữ cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Chỉ bằng cách tìm hiểu nguồn gốc của chúng, chúng ta mới có thể hiểu được nhiều ý nghĩa thâm sâu ẩn chứa trong đó. Tham khảo tư liệu Ngọc Khiết biên dịchQuý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ Xem thêm02/11/202222/01/202216/01/2022
Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục 221- 263, Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh với như Mã Tốc, Ngụy Diên.Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…. Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm 1 giáp nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát LượngCòn đây là bài luận giải của cụ Thiên LươngỞ bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh 181 – 234 sau Công Nguyên lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách “Khô mộc phùng xuân” cây khô gặp được mùa xuân, với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra Đại vận 10 năm, niên vận 1 năm, nguyệt vận 1 tháng, nhật vận 1 ngày, thời vận 1 canh giờ. Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tốThiên thời Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận địnhĐịa lợi Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả nếu có thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá hoà Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán”Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu năm 181 dương lịch. Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi âm Thổ cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai. Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách “Nhật Nguyệt chiếu hư không” Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương thuộc Hoả, Thiên Lương thuộc Mộc mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả Thái Dương nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm Thuỷ với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi thuỷ Mã mới thực là thần diệu Nó không còn là “cùng đồ mã” ngựa hết đường chạy mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài cung an Thân, sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim Tỵ, Dậu, Sửu khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!” Trân trọng! Cảm ơn bạn đã luôn theo dõi các bài viết trên Website của chúng tôi! Quay lại "Blog tử vi" Quay lại "Trang chủ"Tử vi số mệnh Lượt xem 19792 view 6 cặp con giáp đại kỵ, hễ lấy nhau là nghèo khổ cả đời Lượt xem 11792 view Những người sinh vào giờ Sửu 1am đến 3am và những người sinh vào giờ Mùi 1pm đến 3pm đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính Lượt xem 5040 view Tử vi tuần mới của 12 con giáp từ ngày 16/9 đến 22/9/2019nói rằng vận trình công danh sự nghiệp của người tuổi Tý sẽ đạt được nhiều thành công ngoài mong đợi. Bản mệnh được quý nhân nâng đỡ, có nhiều cơ hội để thể hiện năng lực của mình với cấp trên. Nếu biết tận dụng cơ hội tốt thì khả năng thăng tiến trong công việc là rất lớn. Đây là điểm tốt đẹp nhất trong tuần Lượt xem 4832 view Tử vi 12 con giáp thứ 4 ngày 25/3/2020 tuổi Tý Lượt xem 4704 view 5 con giáp có số làm đại gia nhất Lượt xem 4640 view Dưới đây là tử vi thứ Tư ngày 22/4/2020 của 12 con giáp, tuổi Dần vướng phải họa thị phi. Tuổi Tỵ đón nhận nhiều tin vui về công việc lẫn tình cảm. Lượt xem 4240 view Tử vi tài lộc tháng âm lịch này của 12 con giáp sẽ diễn biến như thế nào. Hãy cùng Tử Vi Cổ Học khám phá tử vi tài lộc của 12 con giáp bên dưới đây.
tử vi gia cát lượng