Ngàn Lời Chúc Tán Lyrics (Lê Nguyệt Anh) ~ Nguyện chúc tán chúa muôn đời Dâng Chúa hết tâm hồn Thờ tôn thánh danh Ngài thôi Ngợi ca Chúa mãi không ngừng, hồn linh này Thờ tôn danh thánh cha đời đời Bình minh đã đến, một ngày mới trong tay Ngài Chính lúc con dâng lên Chúa tiếng hát lời Ngàn Lời Chúc Tán, Ngàn Lời Tác giả Thích Nhất Hạnh, một Tăng sĩ Phật giáo, viết một quyển sách cách đây vài năm mang tên “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời” (Living Buddha, Living Christ), cuốn sách đã có một sự ảnh hưởng sâu sắc đến tôi. Lời Việt: [Dm] Chúc tụng [G] Chúa ngàn [Dm] đời, mừng [Bb] chúc thánh [C] danh Ngài hồn [F] tôi [A] ơi. [Dm] Chúc tụng [G] Chúa ngàn [Dm] đời, Người [Bb] dẫn dắt [C] tôi về nguồn [Dm] vui. Lời gốc: [Dm] Bless the [G] Lord, my [Dm] soul. And [Bb] bless God's [C] holy [F] name [A] [Dm] Bless the [G Tăng trưởng du lịch tỉnh Phú Yên đã tạo nên những bước tiến thần kỳ trong năm 2022 với những con số ấn tượng. Theo báo cáo của Sở Du lịch tỉnh Phú Yên, trong 9 tháng đầu năm 2022, tổng lượt khách du lịch đạt 1.612.000 lượt, mang về doanh thu đạt 2.000 tỷ đồng, tăng gấp 498% (tương đương 5,9 lần) so với 1. Từ ngàn đời Chúa đã thương con, thương con không bờ không bến. Từ ngàn đời mặt trời chưa có, vầng trăng vẫn chưa dựng nên. Vay Nhanh Fast Money. [ThaiHaBooks] Ngay những trang đầu, nội dung của cuốn sách đã được trình bày một cách súc tích, đầy đủ qua một hình ảnh rất đẹp Hình ảnh của người anh lớn đến kịp lúc để giúp người em giải quyết một vấn đề nan giải trên máy vi tính. Người anh nói “Em ngồi qua một bên, anh làm cho.” Người em tức thì cảm thấy vững lòng dù chưa biết vấn đề có được giải quyết ổn thỏa hay không. Người anh lớn đó chính là Đức Bụt trong lòng mỗi chúng ta, là sự hiểu biết sáng suốt của chúng ta. Thầy Thích Nhất Hạnh cũng chính là người anh lớn đó, lúc nào cũng gần gũi, thân thiết và kiên nhẫn. Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy “Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thương và tuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.”“Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức” là một cuốn sách nhỏ, đầy chất thi ca, đầy hình ảnh của Phật giáo cổ truyền được diễn bày bằng ngôn ngữ tâm linh của người Tây phương, điều đó để giúp ta hiểu rằng tất cả mọi vấn đề của thế gian đều mang một ý nghĩa chung Đó là ý nghĩa tương tức mà Bụt đã dạy, không có gì mà không liên hệ mật thiết với nhau, không có gì là tách biệt nhau. Cho nên đọc cuốn sách này, ta phải đọc cho tất cả mọi người, để tất cả cùng nhau đóng góp xây dựng hạnh phúc cho mỗi người anh em của mình trên Trái đất này.“Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức” Buddha Body, Buddha Mind do nhà Parallax ấn hành. Đó là nhà xuất bản mà Thầy Thích Nhất Hạnh và Arnold Kotler lập ra từ năm 1987, bây giờ đã trở thành một cơ quan xuất bản không vụ lợi của Cộng đồng sinh hoạt chánh niệm có nhiệm vụ quảng bá sách của Thầy và các tác giả khác viết về chủ đề Đạo Phật đi vào cuộc đời. Quyển sách này là một tác phẩm về Phật giáo Tâm lý học mới thuộc loại xuất sắc nhất. Và chúng ta không ngạc nhiên khi sách bắt đầu bằng pháp môn thực tập thiền đi. “Thực tập thiền đi chậm một mình, quý vị hãy thử phương pháp này thở vào và bước một bước, chú tâm hoàn toàn vào gan bàn chân. Nếu quý vị chưa về,’ chưa tới’ được một trăm phần trăm thì đừng bước thêm bước nào nữa cả. Cứ đợi cho quý vị về tới giây phút hiện tại được một trăm phần trăm rồi thì mới bước đi bước kế tiếp. Quý vị có thể xài lớn’ thì giờ như vậy. Và khi quý vị thấy mình đã về đã tới được một trăm phần trăm rồi thì hãy mỉm cười và bước thêm một bước đi như vậy, quý vị in xuống đất sự vững chãi và thảnh thơi của quý vị.” Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức là một cuốn sách tiếp nối công trình, phát huy giáo lý Duy Biểu của Thầy Nhất Hạnh, lấy cảm hứng từ kinh Lăng Già và các bộ luận của tổ Thế Thân, sống vào thế kỷ V. Cuốn sách trước đó cùng một chủ đề của Thầy là Để hiểu tâm ta Understanding Our Mind, giảng dạy năm mươi bài tụng Duy Biểu của trường phái Vijnanavada. Trong khi Để hiểu tâm ta là một cuốn sách thuộc loại chuyên môn, đọc khá khó hiểu thì Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức lại là một quyển sách đọc rất dễ hiểu vì Thầy Nhất Hạnh đã có tài năng khéo léo diễn tả được những giáo lý khó khăn thâm diệu trong đạo Phật thành ra dễ hiểu với ngôn ngữ thông dụng của thời đại chúng sách bắt đầu bằng cách dạy thiền đi, không phải là không có chủ ý. Chánh niệm từ trước đến nay đã là trung tâm của những gì Thầy giảng dạy cũng như giữa thân và tâm không có gì ngăn cách. Khi ta thực tập thiền đi, thiền ngồi, thiền lạy, khi ta tiếp xử với nhau, ta sử dụng cả thân và tâm cùng một lúc. Khi nói tới tương tức, đồng thời Thầy cũng đề cập tới sự nhất trí diệu kỳ giữa thân tâm với những phức hợp đa dạng, tương liên, tương quan, khăng khít và bất khả tri của các cơ cấu xã hội trong đó ta đang sống. Những gì Thầy Nhất Hạnh giảng dạy đều chĩa mũi dùi vào những cuồng tín và những ảo tưởng của chúng tu Tiếp Hiện, thành lập năm 1966, có mười bốn giới mà giới đầu tiên là “Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.”Chúng ta phải nhìn cho rõ để đạt được tuệ giác qua cái sợ của chúng ta, đừng bao giờ không công nhận bất cứ một cái gì đang thuộc về ta và cũng không bao giờ nên cố níu giữ lấy những cái mà ta đã quá tin tưởng là thật, mà thật ra là không thật. Tuệ giác này, trong sách Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức, đã được đề cập tới rất rõ ràng, thấu đáo – một tuệ giác đưa tới thương yêu và bất bạo động “Thiền tập được dựa trên tuệ giác bất nhị – giữa thiện và ác, giữa khổ và lạc, vì vậy, phương pháp xử lý khổ đau luôn luôn là nhẹ nhàng, bất bạo động. Khi ta đã chấp nhận được tính cách bất nhị của thực tại, ta sẽ trở thành bất bạo động một cách tự thấy không cần phải đàn áp, xua đuổi cơn giận và nỗi sợ của ta nữa, bởi vì ta thấy cơn giận ấy và nỗi sợ ấy cũng là chính ta, chứ không phải là kẻ thù của ta. Do đó, ta sẽ đối xử với chúng một cách nhẹ nhàng êm dịu. Sẽ không còn có sự xung đột nữa. Chỉ còn lại sự thực tập để chăm sóc và chuyển hóa.” Thầy Nhất Hạnh miêu tả “lục-ba-la-mật” như “sáu kỹ thuật tạo nên hạnh phúc.” Ba-la-mật có nghĩa là “từ bờ bên này đi qua bờ bên kia.” Tôi có cảm tưởng là khi dạy về lục độ, Thầy luôn luôn nhấn mạnh tới nhẫn ba-la-mật và tinh tấn ba-la- mật nhiều hơn. Nhẫn ksanti đối với Thầy là kiên nhẫn và không loại trừ, tinh tấn virya là chuyên cần, siêng năng. Nếu không siêng năng vượt bậc thì làm sao Thầy tạo dựng và nuôi dưỡng được từng ấy tăng thân xuất gia và tại gia ở Tây phương, làm sao Thầy viết được từng ấy cuốn sách, làm sao có thể cứ tiếp tục đi giảng dạy khắp nơi trong suốt mấy mươi năm trời và làm sao chịu đựng nổi bốn mươi năm lưu đày viễn xứ? Thầy mới được phép về lại quê xưa lần đầu cách đây chỉ có hai năm! Hơn thế nữa, nếu không chuyên cần và chịu đựng, làm sao Thầy kiên trì tranh đấu cho hòa bình và đối diện được với khổ đau trên thế giới trong suốt mấy mươi năm với hiểu biết và tình thương mà không hề thối chí như thế? Nhẫn nhục đi đôi với tinh nhục, theo Thầy, là “thực tập để làm cho trái tim ta ngày càng lớn rộng thêm ra.” Cũng như mục sư Martin Luther King Jr. dạy về agape trong Kitô giáo, Thầy dạy “Nhẫn nhục là ôm lấy tất cả trong tình thương của mình mà không loại trừ bất cứ ai. Trong tình thương đích thực, ta không còn kỳ thị nữa, dù người ấy là da đen, da trắng hay da vàng, dù người ấy theo đạo Hồi, theo đạo Bụt, theo đạo Do Thái hay theo chủ nghĩa gì đi nữa, mình cũng chấp nhận tất cả mà không còn kỳ thị. Nhẫn nhục ở đây có nghĩa là không kỳ thị.” Thầy Nhất Hạnh nhìn đạo Bụt như con đường tu tập để trở thành một con người toàn vẹn, bước đi trên Trái đất một cách an lạc, tạo dựng được hòa bình. Cách sống này vượt lên khỏi mọi tôn giáo và mọi ý thức hệ, cho tình người là cao cả hơn hết. Tuy nhiên, Thầy cũng nói rằng các tôn giáo lớn phải có trách nhiệm đưa tín hữu của họ vào con đường nhân bản thấy nhà Riverhead vừa ăn mừng kỷ niệm ngày xuất bản cuốn Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời Living Buddha, Living Christ bằng một ấn bản thứ mười của cuốn sách ấy – một tác phẩm được xem như nền tảng chung của cả Phật giáo lẫn Kitô giáo. Với một bài tựa của học giả Elaine Pagels, cuốn sách này cũng là một viên đá nền tảng khác cho Phật pháp tại Tây phương, bây giờ đây còn thích ứng với thời cuộc hơn cả mười mấy năm về trước, khi nó mới được xuất bản lần hoa của cuốn này, cũng như của bao nhiêu cuốn sách khác của thiền sư Nhất Hạnh, là đối thoại và chia sẻ, cái mà thế giới chúng ta đang thực sự cần đến hơn bao giờ hết, cho tất cả các tôn giáo trên thế giới. Làm thế nào để tự nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng truyền thống tôn giáo của mình?Thầy viết “Khi Phật tử và Kitô hữu tới với nhau, họ nên ngồi xuống ăn với nhau một bữa cơm có chánh niệm. Ăn cơm như thể là cử hành bí tích thánh thể. Thực tập ăn cơm trong chánh niệm như thế, mỗi bữa ăn đều có thể trở nên bữa ăn cuối cùng the Last Supper. Thật ra, ta có thể gọi đó là bữa ăn đầu tiên the First Supper, tại vì sau khi ăn một bữa ăn như thế, tất cả mọi cái đều trở thành mới tinh và tươi mát.”Thông tin về cuốn sáchTên sáchBụt là hình hài, Bụt là tâm thứcTác giảThích Nhất trang 311 trangNhà xuất bảnLao độngKhổ13 x 19 cmCông ty CP Sách Thái Hà trân trọng giới thiệu! Một sự phê bình nghiêm túc về những quan điểm cận đại của truyền thông tâm linh Công giáo là đã dành quá nhiều thời gian để phân chiết các hệ thống cũ và những cách thức tư duy, những cái mà cần phải hủy bỏ hay phải làm mới lại, trong khi đó thì lại thiếu những nỗ lực tương đương dành cho sự phân chiết trên trong việc xây dựng những gì hữu dụng hơn – giống Chúa Ki tô hơn – xứng tầm với vị trí của nó. Điều này đúng và tôi có tội về vấn đề này hơn bất kỳ ai. Trong việc thực tập tâm linh trong những năm gần đây của tôi, cái mà tôi gọi “Dự án Jesus của tôi”, tôi cố gắng để có sự hiểu biết đầy đủ hơn những gì chúng tôi hiểu khi nói về việc làm theo Jesus. Cho nên điều này có thể rất xa lạ với một vài điều mà tôi sẽ tìm kiếm ở Phật giáo để giúp xây dựng lại sự thực tập hằng ngày cùng với con đường của Chúa Ki tô. Tác giả Thích Nhất Hạnh, một Tăng sĩ Phật giáo, viết một quyển sách cách đây vài năm mang tên “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời” Living Buddha, Living Christ, cuốn sách đã có một sự ảnh hưởng sâu sắc đến tôi. Tại thời điểm mà tôi “A-B-C” hay “tất cả mọi thứ trừ Công giáo”. Tôi đã bị ném ra khỏi nhà thờ vì đã đặt ra quá nhiều câu hỏi, và vào thời điểm đó tôi nghĩ rằng không có cách nào để bản thân tôi có thể kết nối lại được với Jesus hay Phúc Âm một lần nữa. Thật biết ơn làm sao khi có một tăng sĩ Phật giáo đã đưa tôi lại với Jesus. Trong cuốn sách của mình, ông đã chỉ ra nhiều điểm tương đồng về đời sống, sự giảng dạy và những thực tập giữa Jesus và Siddhartha Gotama sau này được gọi là Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ. Đối với chúa Jesus, tôi nghĩ rằng có một sự trải nghiệm về giác ngộ đến với Ngài trong suốt khóa tu của ông ở sa mạc. Và khi tôi tìm thấy những khoảnh khắc của sự soi sáng của riêng mình trong Dự án Jesus, có một điều xuất hiện là tôi nhận ra Phật giáo có rất nhiều điều chúng ta có thể tham khảo về nơi mà chúng ta có thể đánh mất Đạo Thiên Chúa trong thế kỷ 21. Vô ngã no ego Một trong những điểm yếu lớn nhất của đạo Công giáo hiện đại là quá tập trung vào cá nhân. Điều này xuất phát từ nền văn hóa đậm chất chủ nghĩa cá nhân của chúng ta chứ không phải đơn thuần là do bản thân của đạo Công giáo. Mặc dù chúng ta tập trung vào tội lỗi cá nhân personal sin thường được dịch là tình dục, tư tưởng về tội lỗi trong Kinh Thánh Do Thái thì có nhiều tính tập thể hơn more corporate. Đã có nhiều hơn một nền văn hóa bộ lạc độc lập và như vậy là một sự thiếu sót. Chúng ta cũng tập trung quá mức vào sự cứu rỗi cá nhân hay một “mối quan hệ cá nhân với Chúa Jesus”, điều cũng đã dẫn đến những sự giải thích pha tạp như Phúc Âm sai lầm về sự thành công của cá nhân. Trong sự thực tập Phật giáo, một người phải học cách để cho “bản ngã” mất đi, theo cách nói thì để tạo ra một sự sâu sắc hơn, một mối quan hệ ý nghĩa hơn và tương lập interdependence với những người khác và các tạo vật còn lại. Điều này thực sự phù hợp với tư duy của người Do Thái và người Công Giáo cổ đại hơn là tư duy của chúng ta ngày nay – kiểu giải thích mang màu sắc cá nhân của đạo Công giáo bây giờ. Tìm cầu trí tuệ chứ không phải học thức Nếu bạn đã lớn lên giống như tôi, bạn sẽ được dạy để “chiến đấu với thế giới”, cái cơ bản có nghĩa là kinh thánh của bạn ở bên trong hay bên ngoài – hay ít nhất chỉ nhớ về nó – nên bạn sẵn sàng tranh luận với bất kỳ ai bác bỏ nó dưới bất kỳ hình thức nào. Trong khi đó chúng ta không dành nhiều thời gian để trải nghiệm “thế giới thực tại”. Mặc dù nền văn hóa hiện tại của chúng ta coi trọng sự tích lũy một lượng học thức lớn hay sự thành thạo, chuyên nghiệp, điều này thực sự không giúp được nhiều cho chúng ta trong việc chuẩn bị để sống giống như Chúa Ki Tô vượt khỏi những bức tường của nhà thờ. Trí tuệ không giống như học thức, đến với chúng ta như một sản phẩm của những trải nghiệm đời sống. Một vài điều gì đó xảy ra, và theo thường lệ, chúng ta rối lên. Kế đó chúng ta phản ánh, học hỏi và thay đổi thái độ, hành vi của mình hướng về phía trước. Đạo Công giáo lại thường dạy cho chúng ta về việc bám vào cách tự cho mình là đúng, và tìm kiếm sự thay đổi ở người khác để có thể giống như chúng ta. “Thiên Chúa cấm chúng ta bị thay đổi bởi những người kẻ ngoại đạo”. Nhưng trí tuệ thực sự có nghĩa là chúng ta học hỏi và được ảnh hưởng bởi tất cả những trải nghiêm của mình, và sử dụng trí tuệ này như một cơ hội để thực hiện và trở nên tốt hơn ở tương lai. Lòng từ tâm chân chính hơn cả niềm tin chân chính Khi một ai đó tham gia vào một nhà thờ công giáo, hay trước khi họ được rửa tội, hay cam kết đời sống của họ với Thiên Chúa, chúng ta chắn hẳn sẽ hỏi họ với ba chữ “BẠN CÓ TIN…”. Nhưng mà Jesus không hỏi người ta rằng họ tin về điều gì, hay học thuộc một số tín điều trước khi theo Ngài, hay đi và làm cho những người khác những gì mà Jesus đã làm. Jesus quan tâm nhiều hơn về bản chất trái tim của họ hơn là những yêu cầu về niềm tin. Đây là một giáo lý cơ bản của Phật giáo, thứ có thể giúp ích nhiều cho chúng ta. Chúng ta được dạy là một trái tim chân chính sẽ dẫn đến những tư duy đúng đắn và kế đó là sẽ dẫn đến những hành động đúng đắn. Tất cả đều bắt đầu từ sự định hướng của trái tim chúng ta, theo cách mà chúng ta nhìn nhận, hiểu biết và phản ứng với thế giới. Chúng ta không được gửi vào thế giới quá nhiều để ép buộc mọi người vào những tư duy giống nhau, chúng ta đang bị kết tội về việc ra ngoài và cung cấp chính bản thân chúng ta một cách đầy đủ, cống hiến với sự khiêm tốn nhằm phụng sự cho mọi người, bất kể họ là ai, niềm tin của họ là gì và kết quả gì có thể xảy ra cho chúng ta. Vô thường Chúng ta dường như khá gắn bó với một số mối quan hệ sai lầm giữa lòng thành tín của mình và các nhà thờ, giáo hội. Chúng ta biết rằng chúng ta đang làm công việc của Chúa nếu như các nhà thờ của chúng ta đầy ắp, những ngân sách được đáp ứng và chúng ta có thể trao quyền một tài sản tổ chức lành mạnh cho những ai đến sau chúng ta. Nhưng Jesus rao giảng về sự phá hủy của những ngôi đền đài chứ không chỉ làm người khác mê mẫn; Jesus cảnh báo họ là đừng nên bám víu vào tất cả những lễ phục tôn giáo xung quanh họ, những thứ mà chắc chắn sụp đổ và suy tàn. Chúng ta có thể học được rất nhiều từ môn nghệ thuật tạo hình Mạn đà la. Những thiết kế nghệ thuật trên cát công phu này thường mất nhiều tuần hoặc hơn để thực hiện với một số tăng sĩ tham dự thực hiện nhiều giờ mỗi ngày. Và dù khuynh hướng chung của chúng ta là bảo tồn và thậm chí đấu tranh để bảo vệ cái đẹp, nhưng Mạn đà la cố tình bị phá hủy không lâu sau khi hoàn thành. Cát được trở về với lòng đất và ấn tượng về Mạn đà la chỉ còn lại trong tâm thức của chúng ta mà thôi. Đây là một sự thực tập về sự buông bỏ, một điều mà chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều. Chăm sóc cho tất cả các tạo vật Những người Ki tô hữu chúng ta bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cách mạng công nghiệp theo các cách tác động tiêu cực đến mối quan hệ với những tạo vật còn lại. Điều này kết hợp với sự nhấn mạnh, đề cao quá mức về bản thân và những bản sắc giới tính, đã làm cho chúng ta cảm thấy liên hệ với người khác nhiều hơn và ít phụ thuộc vào tự nhiên. Ý niệm về chủ nghĩa sở hữu đã dạy bảo sai lạc những người Ki tô hữu rằng hành tinh này là của chúng ta và chúng ta được sử dụng theo ý thích của mình. Và một số còn đi xa hơn khi cho rằng bất cứ điều gì chúng ta làm để giúp đẩy nhanh thời gian cuối cùng the end-times để giúp chúng ta đến gần hơn để loan báo Nước Chúa trên trái đất này. Phật giáo dạy bảo những điều đơn giản, khiêm tốn và quan tâm có chủ đích đến tất cả các tạo vật. Thực tập chánh niệm và khiêm tốn giúp chúng ta giảm đi sự lệ thuộc vào những dục vọng cá nhân, giúp cho bản thân thấy được sự thái quá và vô cảm của những thói quen của mình. Khi chúng ta có một ý thức tốt hơn về vị trí của mình trong một hệ sinh thái rất tinh tế, chúng ta không những quan tâm nhiều hơn với mọi thứ xung quanh, mà chúng ta cũng quan tâm tới bản thân mình nhiều hơn thế. Bạn đọc đang có trên tay một cuốn sách rất thú vị Người Thầy của tỉnh thức & thương là tập hợp một số bài báo trong hàng vạn bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh của các cây bút nổi tiếng trên thế giới. Có thể xem cuốn sách này như một tập chân dung về Thiền sư Thích Nhất Hạnh được “ký họa” ở nhiều góc độ khác nhau, dưới con mắt quan sát, qua “cái thấy” của người nước ngoài. Vì thế, đây là cuốn sách quý, rất đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước, từ lâu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được xem là một trong số ít những vị lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất thế giới. Người Phương Tây thường gọi ông một cách giản dị và kính trọng là “Thầy”, với hàm nghĩa Thiền sư là người thầy tâm linh, trong khi người Việt Nam lại trìu mến, thân thương gọi ông là “Sư Ông Làng Mai”. Rất nhiều Phật tử coi ông như một vị Bụt sống. Ông là tác giả của hàng trăm cuốn sách, trong đó có rất nhiều cuốn được xếp hạng best sellers như An lạc từng bước chân, Phép lạ của sự tỉnh thức, Bụt ngàn đời Chúa ngàn đời,… đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ông còn có hàng ngàn buổi thuyết pháp bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của giải Nobel Hòa bình. Và thực sự, ông là một sứ giả của hòa ta đang sống trong một thế giới đầy bất an. Chiến tranh, khủng bố, bạo lực. Sự suy thoái kinh tế, suy thoái đạo đức diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Cái đẹp mong manh luôn bị dồn đuổi, trong khi cái ác lại lộng hành lên ngôi. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc ngột ngạt và nóng đến mức, có cảm giác chỉ sơ ý đánh rơi một tàn lửa là cả hành tinh đã bùng cháy thành một Hỏa Diệm Sơn khủng có cách nào cứu được không?Có đấy. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhà văn nổi tiếng thế giới M. Dostoevky đã phát hiện ra một phương thuốc hữu hiệu “Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới”. Tình yêu ở đây không chỉ là tình yêu lứa đôi mà rộng hơn, cao hơn, đó là tình yêu thương của con người với con người. Chỉ tình yêu thương ấy mới cứu rỗi được thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng quan niệm như vậy. Ông cho rằng, chỉ có tình thương yêu mới xóa bỏ được mọi hận thù. Không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại được xây đắp bằng máu, nước mắt và sự thất bại của kẻ khác. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công thì hạnh phúc của ta mới lớn hơn, trọn vẹn hơn. Hạnh phúc không bao giờ bắt nguồn từ quyền lực, danh vọng và tiền bạc. Hạnh phúc đích thực chỉ có khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết. Nếu tất cả mấy tỷ người trên thế giới này hàng ngày nói với nhau bằng ngôn từ hòa ái, nếu tất cả các vị lãnh đạo trên thế giới này ứng xử bằng cái tâm chứa đầy Hiểu và Thương thì tất cả chúng ta sẽ trở thành những vị Bồ tát và hành tinh của chúng ta sẽ tràn ngập hạnh phúc, tình yêu thương. Đó đích thị là Niết bàn, là Thiên đường. Ở đó, sẽ không có chiến tranh, không có bạo lực, không có những kiếp người bị đọa mấy chục năm qua, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cần mẫn gieo hạt mầm yêu thương như thế trên khắp thế giới. Trọn một đời tu hành, ông luôn hướng chúng ta đến cõi thiện, giúp chúng ta có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề lo toan, hờn trách. Ông chỉ bày cho chúng ta cách có thể đứng vững trước bao nhiêu bon chen, đố kỵ, những mưu ma, chước quỷ của con người. Vì thế, mỗi bước chân của ông là bước chân của an lạc, thương yêu. Mỗi hơi thở của ông là hơi thở của từ bi, bác thể nói, một trong những công lao lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc đời và một trong những nét đặc sắc nhất trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của ông là đã dạy cho người đời cuộc sống có tỉnh thức bằng hơi thở, bước chân có chánh niệm. Nhờ thế, ông đã cứu rỗi được biết bao tâm hồn đau khổ, đã gột rửa những bụi bặm, bùn nhơ cho biết bao phận người, giúp họ tự giải thoát, và hơn thế, trở thành những vị Bồ tát giữa đời thường. Có lẽ cũng cần nhắc lại câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với một người lính Mỹ. Anh ta đã từng tham chiến ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã vô tình giết năm đứa trẻ. Những đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh – bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của ông. Thiền sư chia sẻ “Thưa ông, sự thật là ông đã sát hại năm đứa trẻ vô tội trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng có những việc ông có thể làm để chuộc lại lỗi lầm ấy. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều đứa trẻ đang chết vì thiếu thức ăn, thiếu dinh dưỡng và thuốc men. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ngày có khoảng bốn chục ngàn trẻ em trên thế giới chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Sao hôm nay ông không ra tay cứu giúp những đứa trẻ đang chết đói như thế, thay vì ngồi đó mà giam hãm mình trong cái ngục tù ký ức của khổ đau, tội lỗi về hành động sát hại năm đứa trẻ. Ông hãy thực tập làm mới trở lại, đem cuộc đời của mình để làm những điều ngược lại với những hành động thiếu hiểu biết, thiếu tình thương mà ông đã gây ra trong quá khứ. Ông hãy cố gắng hết khả năng của mình để tìm cách bảo vệ sự sống, cứu giúp những mạng sống của các em bé nghèo ở các nước chậm tiến. Hãy đi vào cuộc đời để cứu giúp những em bé bất hạnh. Vô số các em bé đang cần sự giúp đỡ, đang cần cánh tay từ bi của ông. Ông không nên ngồi đó mà tự giam hãm mình trong cái xiềng xích của tội lỗi, tuyệt vọng trong khi ông có thể sửa đổi được quá khứ.”.Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh, đã khỏe mạnh trở về với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không chỉ cứu được năm đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới. Và thế là, từ một kẻ tội đồ, anh đã trở thành một vị Bồ tát nhờ biết tu tập và biết thương sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông là một vị Bụt sống. Ông xuất hiện ở đâu là nơi đó thành ngôi chùa linh thiêng. Ngôi chùa ấy có tên là TÌNH YÊU THƯƠNG. Và ở đó chỉ có tình yêu thương ngự trị. Người Việt Nam chúng ta tự hào vì có ông. Ông là một trong những người Việt Nam đẹp nhất. Cả một đời tu tập chỉ để đem hạnh phúc, thương yêu đến cho mọi có nhiều cuốn sách viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song cuốn sách này sẽ mang đến cho chúng ta nhiều điều thú vị bởi chúng ta được chiêm ngưỡng ông qua con mắt thông thái của các nhà báo nước ngoài. Trước khi viết về ông, họ đã tham gia những khóa tu. Vì thế, họ ngắm ông không phải bằng con mắt của kẻ vãng lai mà là cái nhìn và sự thấu hiểu của người trong cuộc. Điều đặc biệt là qua những bài viết ấy, chúng ta phát hiện ra, người phương Tây tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ để giãi bày, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, tìm lại niềm vui sống giữa đời mà họ còn tìm cầu tuệ giác của ông trong việc làm thế nào để điều hành doanh nghiệp tốt hơn, giảm bớt stress, căng thẳng, phát huy nhiều hơn nữa sự sáng tạo, trên cơ sở đó để tăng lợi nhuận. Họ là những CEO của các tập đoàn kinh tế khổng lồ như Google, Yahoo, Ngân hàng Thế giới World Bank. Họ còn là những thượng nghị sĩ Mỹ, những ngôi sao Hollywood nổi tiếng, những chính khách lừng danh… Qua những cuộc gặp gỡ, trao đổi ấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chỉ bày cho họ hướng đi tâm linh trong đời sống, trong sự nghiệp cùng những phương pháp thực hành rất cụ thể. Nhờ thế, họ có thể xử lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra. Nhờ thế, họ đã nhận ra được tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống thường đến đây, tôi tự hỏi Vì sao người phương Tây lại theo học Thiền sư Thích Nhất Hạnh đông như vậy? Theo tôi, sở dĩ người Tây phương theo ông học hỏi, thực tập nhiều vì ông không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin, của cầu nguyện, của dâng sao giải hạn theo lối mê tín mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Bởi Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người đã đắc đạo, có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập. Đạo Phật là một phương pháp sống nương vào tự lực hơn là nương vào một quyền lực linh thiêng nhuốm màu mê tín ở bên ngoài, không giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại. Tu tập theo ông, người ta sẽ thấy trí tuệ và lòng từ bi tăng trưởng, nhờ thế mà thân tâm họ điều đặc biệt nữa là qua cuốn sách này, chúng ta thấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người quan tâm nhất đến vấn đề môi trường, môi sinh và biến đổi khí hậu của trái đất. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, Thiền sư đã chỉ ra rằng Toàn thể nhân loại và muôn loài vật, cỏ cây… có một ngôi nhà chung là quả địa cầu. Vì vậy, các quốc gia đừng vì cái lợi trước mắt, cái lợi của riêng mình mà phá hủy môi sinh của núi rừng, biển cả, lớn hơn là của bà mẹ trái đất. Ông đã gióng tiếng chuông báo động về sự sụp đổ của nền văn minh nhân loại trong vòng một trăm năm tới do hậu quả của biến đổi khí hậu. Bằng tuệ giác siêu việt của mình, ông đã lý giải Sở dĩ phần lớn chúng ta không hành động gì để đối phó lại trước nguy cơ trái đất bị hâm nóng, cho dù đã có vô số các chứng cứ khoa học, là vì chúng ta không có khả năng tự cứu mình khỏi những khổ đau của tự thân thì làm sao có thể lo lắng cho vận mệnh của đất Mẹ. Nếu nhận thấy tính tương tức của vạn vật trong vũ trụ, chúng ta sẽ vượt thoát ý niệm cho rằng, chúng ta là những thực thể tách biệt. Khi đó, tình thương, lòng từ bi trong ta sẽ trở nên rộng lớn và chính năng lượng đó thôi thúc ta hành động để bảo hộ đất lại trang sách cuối cùng, điều đọng lại trong tôi là hình ảnh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh hiện lên lồng lộng với một tâm hồn lớn, trí tuệ lớn, tình thương lớn. Tình thương ấy đủ rộng để ôm trùm tất cả muôn loài, muôn vật trong vũ trụ. Vì thế, với tôi, đây là một cuốn sách rất có giá trị. Và tôi tin, cuốn sách sẽ mang đến cho quý vị nhiều thông tin bổ ích và lý Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2019Nhà thơ Trần Đăng Khoa 1. Nhà Is-ra-el, hãy xướng lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nào A-ha-ron, hãy xướng lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Người tôn sợ Chúa hãy nói lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. ĐK Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 2. Ngài vẫn chở che phù giúp tôi dù đời giăng mắc đầy hiểm nguy. Ngài trở nên Đấng giải thoát tôi vì Ngài là dũng lực đời tôi. Mừng vui chiến thắng lời hát vang kìa này tay Chúa kỳ diệu thay! 3. Là đá thợ nề loại bỏ ra đá trở nên đá nền tường xây. Việc do tay Chúa làm lớn lao thật là cao quý kỳ diệu thay! Và đây ngày Chúa đã tác nên nào người ca hát và mừng vui. ⬤ Tung hô Tin Mừng Alleluia, Alleluia. Tô-ma vì con thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những người đã không thấy mà tin. Alleluia, Alleluia. ***** Thánh Vịnh 117 Chúa Nhật 2 Phục Sinh C ĐK Alleluia, Alleluia, Alleluia. 1. Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa nhân từ. Mãi muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nào Is-ra-el hãy nói lên rằng "Muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. 2. Uy lực tay Chúa, kìa cánh tay uy quyền. Tay mặt của Người cất nhắc dìu tôi lên. Này tôi không chết nên sẽ loan truyền những công việc tay Chúa đã làm nên. 3. Chính thật viên đá, thợ xây đã loại trừ. Nay đã trở thành đá góc toà nhà cao. Việc này do Chúa ôi quá diệu kỳ, rất lạ lùng trước mắt của toàn dân. ***** Thánh Vịnh 117 Vọng Phục Sinh - Sau Bài Thánh Thư

bụt ngàn đời chúa ngàn đời